Có lẽ, thư pháp là “thú chơi” nho nhã phong lưu nhất trần đời mà tạo hoá ban tặng cho con người. Nói đến nghệ thuật thư pháp, người ta nghĩ đến cái “thần” của chữ. Đó là thần thái của “người cho chữ” được thể hiện qua phong thái ung dung tự tại, tâm thế vững vàng và nét bút tài hoa phóng khoáng...
Kỳ công chữ nghĩa Người khai sinh ra thư pháp viết bằng chữ quốc ngữ, có lẽ là nhà thơ Đông Hồ(?). Những lúc hứng thú, thi sĩ xứ Hà Tiên lại cầm bút lông phóng bút trên giấy dó những câu thơ “thiên cổ chí kim” của bạn thơ và của chính mình. Thời của Đông Hồ thi sĩ, viết thư pháp không thuần túy là “thú chơi” mà trở thành “đạo” của chữ nghĩa. Những bức thư pháp do Đông Hồ phóng bút là quà tặng dành cho người tri âm tri kỷ.
Bậc cao niên trong làng thư pháp ở đất “Tràng An thanh lịch” là ông Lê Xuân Hòa và ông cũng đã được giới thư pháp Việt Nam xem là tiền bối về nghệ thuật thư pháp, nhất là thư pháp Hán ngữ; là bậc tài hoa của nền thư pháp Việt Nam với cái tâm ông tĩnh mà động, thần thái nho nhã như một “cụ Đồ”.
Nhà thư pháp Lê Xuân Hòa nổi tiếng với những triển lãm thư pháp tại Văn miếu Quốc Tử Giám, đã từng được một số nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thưởng lãm. Mỗi bức thư pháp mà ông Hoà tặng lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cụ Giáp đều mang ý nghĩa sâu sắc, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, đức độ, tài năng và tấm lòng “ưu nước thương dân”. Thế mới thấy, thư pháp không chỉ là chữ nghĩa.
Sự “bùng nổ” về nghệ thuật thư pháp trong những năm qua làm phong phú, đa dạng cả về phong cách thể hiện và ý nghĩa nhân sinh của thư pháp. Những dịp Cố đô Huế tổ chức Festival, người dân Huế và du khách trong và ngoài nước rất thích thú trước những gian trưng bày thư pháp. Đặc biệt là trưng bày thư pháp “độc bản” Truyện Kiều của Nguyễn Du, được nhóm thư pháp của Huế phóng bút trên giấy dó khổ rộng. Còn độc đáo hơn, trong dịp Festival Huế gần đây, một nhà thư pháp Huế đã làm cho du khách ngạc nhiên và trầm trồ thán phục: viết thư pháp... bằng râu. Riêng việc dưỡng râu đã là một kỳ công. Nhưng dùng “bút râu” chấm vào nghiêng mực để thể hiện... thư pháp trên giấy phải gọi là “công phu tuyệt đỉnh”!
Thư pháp là sự kết hợp giữa nghệ thuật viết chữ và ý nghĩa của những chữ thể hiện trong bức thư pháp. Chữ nghĩa của các bậc “thánh hiền” thường thấy trên các bức thư pháp như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Phúc, Lộc, Thọ, Nhẫn. Thơ của các nhà “Đường thi”, thơ văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các nhà thơ: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Bùi Giáng..., ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và nhiều thi sĩ, nhạc sĩ khác xuất hiện với tần suất cao tại các cuộc triển lãm thư pháp, trên lịch Tết, trong nhà những người yêu thư pháp và “sính” văn chương.
Nghề "chơi" cũng lắm công phu! Phóng bút trên giấy vẫn chưa đủ “đô” để chuyển “lời hay ý đẹp” đến với công chúng nên những nhà thư pháp đã tìm tòi thể hiện nhiều “hình thái” thư pháp khác nhau và đã mang lại hiệu quả nhất định.
Thư pháp không đơn thuần thể hiện trên giấy dó, mà còn được thể hiện trên gỗ, trên đá, trên lá, trên vải vóc, trên nong, nia, giần sàng... Nhà thư pháp Hồ Công Khanh khá nổi tiếng trong những năm qua đang thể nghiệm hình thức thư pháp... viết trên đá. Cây bút thư pháp Phạm Tấn Dũng ở thị trấn Vĩnh Điện (Điện Bàn - Quảng Nam) cũng có trên 100 bức “thạch thư pháp” như thế.
Những nhà thư pháp trẻ, thường là sinh viên trường mỹ thuật, là người có nhiều “sáng tạo” thư pháp trên các chất liệu khác nhau. Thật thú vị khi thư pháp được thể hiện trên quả bầu khô với những câu thơ liên quan đến “tửu”; nghe mùa xuân đồng đất chuyển mình với thư pháp... trên trái bí đỏ; âm thanh của đất mẹ, của chiêm nghiệm nhân sinh của thư pháp trên gốm và nghe những nhọc nhằn mùa màng, những khúc ca dao của thư pháp trên nong, nia giần sàng quen thuộc của nhà nông.
Đặc biệt, nghệ thuật sáng tạo trong thư pháp rất độc đáo là “thư ảnh”, thư pháp thể hiện trên ảnh nghệ thuật đã xuất hiện tại cuộc triển lãm gần đây của một nghệ sĩ nhiếp ảnh TP. Hồ Chí Minh.
Bàn về thư pháp, đã tốn không ít giấy mực của những nhà nghiên cứu nghệ thuật, văn hoá, ngôn ngữ, của những những người “trong nghề” và của những nhà báo, nhà phê bình...
Có một dạo, trên báo chí người ta “phê” thư pháp viết bằng tiếng Việt, đại thể là: Tiếna Việt mà viết xuống dòng như chữ Tàu, thế có gì mà đẹp? Có người còn “vu” rằng: Thư pháp tiếng Việt viết theo phong cách hiện hành là làm nghèo ngôn ngữ dân tộc (?)…
Phê phán hay “tụng ca” là quyền và cái “gu” thẩm mỹ của mỗi người. Thư pháp vẫn tồn tại và phát triển từ xưa đến nay. Nó góp phần làm cho cuộc sống của còn người bớt bận bịu lo toan...
Ngày Xuân, tản mạn... cùng thư pháp để thanh thản, nhẹ lòng cùng dư vị mùa xuân lan toả khắp đất trời. “Chớ tưởng xuân tàn, hoa rụng hết/ Đêm qua, sân trước một nhành mai”. Xin mượn câu thơ của Mãn Giác Thiền sư để chào đón “nhành mai sân trước” báo hiệu mùa xuân rạo rực khắp đất trời. (Trích nguồn NLĐ)Đọc tiếp...
Lẽ trời đất có thủy khởi phải có tận cùng, một năm đã bắt đầu ắt phải có hết, bắt đầu từ lúc giao thừa, cũng lại hết vào lúc giao thừa. Theo Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh, giao thừa nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ mới này, có lễ Trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm cũ sắp qua để đón những cái mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới.
Lễ Trừ tịch theo người Tàu còn là một lễ khu trừ ma quỷ. Tục Tàu xưa vào ngày Trừ tịch, tức là ngày 30 Tết, có dùng 120 trẻ con trạc chín mười tuổi, mặc áo thâm, đội mũ đỏ, cầm trống vừa đi đường vừa đánh để trừ khử ma quỷ, do đó có danh từ Trừ tịch. Lễ Trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên lễ này còn mang tên là lễ Giao thừa.
Xưa kia người ta cúng giao thừa ở đình, ông Tiên chỉ hoặc Thủ từ đứng làm chủ lễ, nhưng người ta cũng cúng giao thừa ở thôn xóm. Lễ giao thừa ở thôn xóm được tổ chức hoặc tại các văn chỉ nếu văn chỉ làng xây tại xóm, nếu không thì cũng tổ chức ngay ở điểm canh đầu xóm. Ở đây vị được cử ra làm chủ lễ là vị niên trưởng hoặc vị chức sắc cao nhất trong thôn xóm. Một chiếc hương án được kê ra, trên hương án có đỉnh trầm hương hoặc bình hương thắp tỏa khói nghi ngút. Hai bên đỉnh trầm hương có hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến.
Lễ vật gồm chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm cỗ mũ của Ðại Vương hành khiển. Lễ quý hồ thành bất quý hồ đa, nhưng dù nhiều dù ít, lễ vật bao giờ cũng phải gồm có vàng hương, vàng lá hay vàng thoi tùy tục địa phương và nhất là không quên được rượu, vì vô tửu bất thành lễ.
Ðến giờ phút này, chuông trống vang lên, ông chủ tế ra khấn lễ, rồi dân chúng kế đó lễ theo, với tất cả sự tin tưởng ở vị tân vương hành khiển, cầu xin ngài phù hộ độ trì cho được một năm may mắn, bao nhiêu sự không may năm trước sẽ qua hết. Tại đình làng, cùng với lễ cúng ngoài trời còn lễ thành hoàng hoặc vị phúc thần tại vị.
Các chùa chiền cũng có cúng lễ giao thừa, nhưng lễ vật là đồ chay. Đồng thời với lễ giao thừa, nhà chùa còn cúng Phật, tụng kinh và cúng Ðức Ông tại chùa.
Ở các tư gia, các gia trưởng thường lập bàn thờ ở giữa sân, hoặc ở trước cửa nhà, trường hợp những người ở thành phố không có sân cũng một chiếc hương án hoặc một chiếc bàn kê ra với lễ vật như trên.
Ngày nay trước mọi biến chuyển dồn dập của thời cuộc nước nhà, ở thôn quê, rất ít nơi còn cúng lễ giao thừa ở các thôn xóm, ngoài lễ cúng tại đình đền. Và ở các tư gia, tuy người ta vẫn cúng lễ giao thừa với sự thành kính như xưa, nhưng bàn thờ thì thật là giản tiện. Có khi chỉ là chiếc bàn con với mâm lễ vật, có khi lễ vật được đặt trên một chiếc ghế đẩu. Hương thắp lên được cắm vào một chiếc ly đầy gạo hoặc vào một chiếc lọ nhỏ để giữ chân hương. Có nhiều gia đình hương thắp đặt ngay trên mâm lễ, hoặc cấm vào các khe nải chuối dùng làm đồ lễ.
Cúng giao thừa ở ngoài trời
Ngày xưa quan niệm rằng mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một người có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: Ðược mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam... thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao, các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về, không trung tấp nập, vội vã, thậm chí có quan, quân còn chưa kịp ăn uống gì.
Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
Vì cứ tưởng tượng thêm thắt các hình ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều nhà có của đua nhau cúng giao thừa rất to và nghĩ cách làm mâm cúng giao thừa nổi lên bởi những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các quan chú ý, quan tâm đến chủ hảo tâm mà phù hộ cho họ với những ưu ái đặc biệt.
Trong đêm Giao thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ thôn quê đến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ. (Trích Nguồn Tín ngưỡng Việt Nam)Đọc tiếp...
Đời có nhiều thú vui để hưởng thụ : tình yêu, thi ca, nghệ thuật, du lịch.. đều là nhịp sống của nhân loại tương quan từ tinh thần đến vật chất, như vẽ đẹp của thiên nhiên mây nước. Sự cảm thông của tâm hồn với những thú vui tùy theo sở thích của từng người. Theo Tô Đông Pha "sự như xuân mộng liễu vô ngấn / đời qua mau như một giấc mơ xuân, không lưu lại một vết nào", nhà thơ Xuân Diệu quan niệm đời người ngắn ngủi mà thời gian khắc nghiệt trôi qua phải nhanh lên vui hưởng nếu không thời gian sẽ xóa hết những nét xuân, trong bài giục giã "mau với chứ thời gian không đứng đợi "
Thời gian không dừng lại với chúng ta, khi những cánh én không còn bay lượn ở lưng trời thì tiếng ve sầu ngâm vang mùa hè rực rở lá hoa, rồi thu về trời se lạnh gió thu mang theo những chiếc lá vàng rơi... Mùa xuân với mai vàng, hoa anh đào, hoa cúc, hoa vạn thọ nở đẹp ở bên quê nhà, trong lúc Âu Châu là mùa đông ảm đạm thời tiết đang giá lạnh cây trơ cành trên màu trắng của tuyết, chúng ta ngậm ngùi hướng về Tết cổ truyền Việt Nam. Hằng năm vào cuối đông Cộng Đồng Việt Nam sống lưu vong khắp nơi trên thế giới, lo chuẩn bị vui Tết hướng về quê hương, mỗi lần xuân về chúng ta thường nghe nhạc phẩm bất hủ "ly rượu mừng" của nhạc sĩ Phạm Đình Chương:
Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi Rót thêm tràn đầy chén quan san, Chúc người binh sĩ lên đường.. Chiến đấu công thành Sáng cuộc đời lành Mừng người vì nước quên mình..
Dù nơi đây không có tiếng pháo giao thừa, nhưng chúng ta cùng nâng ly rượu mừng xuân nhớ về cố quốc ...
Giao thừa hàng xóm sao im tiếng Lần nữa ta mừng Xuân biệt hương Nâng ly như trút vào trong dạ Tràn pháo đầu Xuân, đứt đoạn trường (Cao Yên Tuấn )
Rượu có hàng chục ngàn năm, từ non cao đến thành thị người ta đều biết biến chế và uống rượu, theo thời gian và mỗi nơi có những công thức khác nhau. Rượu thường chế bằng các thứ hạt ngũ cốc với bột men. Người Pháp có truyền thống chế rượu mạnh và rượu vang bằng các loại nho tùy theo phong thổ, bên sông hay đồi núi nổi tiếng như : Châuteau, Charente, Bordeaux. Eau-de-Vie de Cognac hay Eau-de-Vie des Charentes. Người Đức chế rượu bia với nguyên liệu chính là Mễ cốc(Getreide), Mạch nha (Malz) hạt ngô (Mais). Không thể thiếu hoa Hopfen (Đường hoa thảo) làm xúc tác lên men tên khoa học Humulus -Lupulus Cannabincaceen, nguồn gốc nước giếng cũng là yếu tố làm bia ngon.
Người Việt Nam cất rượu với nguyên liệu : đường với ngũ cốc, có rượu đế (Reisschnaps) ruợu lúa mới, Hà Nội có rượu nếp Cảm, Sài gòn có rượu nếp Thang, Đà lạt có rượu dâu.. Mỗi gia đình có thể cất rượu cho ngày tết hay các lễ cưới hỏi...gạo lức hay nếp nấu chín đổ ra nong trải rộng để nguội rắt bột men đều trên mặt ủ lại bằng lá chuối vài ba đêm lên men, trên mặt có men màu vàng hay hơi xám, cho vào hủ đổ nước vừa dung tích đậy nắp kín để chổ mát thích hợp thời gian ngắn, bỏ đường vào hòa tan trong dung dịch đó gọi là hèm, đem cất lấy rượu.. (men tự biến chế từ rể, củ, cây lá, theo gia truyền bí quyết làm rượu thơm ngon) Người Thượng dùng các thứ lá, rễ cây trên núi để ủ men, những thứ này cùng với củ gừng, riềng xắt nhỏ, phơi khô, giã mịn, trộn với bột gạo và vỏ trấu, viên tròn phơi khô để biến chế rượu Cần, loại rượu nầy làm với chất liệu: Hạt cào (một thứ cỏ mọc ở núi), hạt bo bo, kê, gạo, bắp (ngô), khoai mì (sắn).
Mỗi loại có hương vị ngọt ngào riêng, tuy nhiên được yêu chuộng nhất theo thứ tự vẫn là rượu cào, bo bo, kê, rồi mới đến gạo, bắp. Chất liệu được nấu chín, trãi ra cho nguội. Men giã nhỏ, trộn đều. Sau khi ủ qua một đêm, mở ra bốc hơi thơm ngào ngạt, để có độ thoáng cho rượu lên men. Sau đó cho vào những chiếc chóe nhỏ to bằng gốm, bịt kín miệng bằng lá chuối. Chóe ủ rượu có nơi còn gọi là ghè, nên rượu Cần còn được người Thượng gọi là rượu Ghè, dân tộc thiểu số đều có bí quyết biến chế rượu.
Rượu không thể thiếu trong các lễ nghi giao tế "vô tửu bất thành lễ " Người Việt thờ cúng ông bà những ngày giỗ kỵ thường có rượu, trầu cúng ở bàn thờ để tưởng nhớ, đầu năm mừng tuổi, hoặc đi ăn giỗ, các lễ cưới, hỏi, hội hè điønh đám không thể thiếu rượu. Thiên Chúa Giáo dùng rượu trong Thánh lễ, nhưng Phật Giáo Việt Nam, Trung Hoa thì cấm uống rượu, ngược lại ở Nhật Bản tu sĩ có thể uống rượu ?, các quốc gia Hồi giáo cấm rượu, nhưng được đa thê !! Thổ Nhỉ Kỳ (Hồi Giáo) được uống rượu, ngoại trừ thành phố Konya không bán rượu.
Uống rượu trở thành thói quen trong sinh hoạt, cuộc tri ngộ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê trong văn học sử Việt Nam là một tình bạn tâm giao thắm thiết khi Dương Khuê tạ thế, Nguyễn Khuyến đã cảm thấy mất đi hầu hết hứng thú của cuộc đời và khóc bạn :
Rượu ngon không có bạn hiền Không mua không phải không tiền không mua Câu thơ nghĩ đắn đo không viết Viết đưa ai, ai biết mà đưa ? Giuờng kia treo những hững hờ Đàn kia có gãy, ngẩn ngơ tiếng đàn...
Ngày xưa thi nhân xem thú uống rượu đứng thứ tư sau thú chơi đàn, đánh cờ, ngâm thơ
Đàn năm cung réo rắt tính tình đây Cờ đôi nước, rập rình xe ngựa đó Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà (Nguyễn công Trứ )
Người Á Châu có thể dạy người Tây phương về cách uống trà, nhưng chúng ta phải học họ cách uống rượu, tuy nhiên người Trung Hoa biết thưởng lãm nghệ thuật trà, rượu ."Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ./ Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh", ở huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiếc Giang nổi danh thứ rượu hoàng tửu, nhà nào sinh con gái thì cha mẹ làm một hủ rượu cất giữ, khi con gái xuất giá cho mang theo món rượu quý với những tư trang. Uống rượu là thú vui trợ hứng trong khi tán ngẩu chuyện đời, đẹp nhất mùa xuân uống rượu bên cây mai vàng nở rộ và ban đêm uống dưới bóng nguyệt. Uống rượu phải có nghệ thuật "nên lựa lúc và nơi để say. Say với hoa thì nên vào ban ngày để hưởng hết màu sắc, ánh sáng; say với tuyết với trăng sao thì nên lựa ban đêm để tâm tư được thanh tĩnh".
Các cụ ngày xưa quan niệm "không có rượu thì sơn thủy cũng vô nghiã ; nếu không có đàn bà đẹp thì trăng hoa cũng vô ích.." hay "nam vô tửu như kỳ vô phong" ngoài niềm vui với thi phú, ngâm thơ vịnh nguyệt, say với đời, người sành rượu phải biết "tri kỳ vị, tri kỳ hương, tri kỳ ảo, tri kỳ linh" (biết vị của rượu, biết hương thơm rượu, biết sự huyền ảo, biết linh hồn của rượu)...
Ở Âu Châu nghệ thuật uống rượu phải phù hợp thời gian và không gian, rượu nào ly đó, nhiệt độ tùy theo loại rượu trắng hay đỏ, không bỏ nước đá vào bia hay rượu. Rượu phải thích hợp với món ăn, uống để thưởng thức và tâm sự, tiệc tùng các bà ngồi chung bàn, không thấy rượu nào nói đến chuyện cường dương ?. Bên Việt Nam các bà ngồi riêng, các ông thì "dô dô" chai nầy đến chai kia, uống cho sỉn không thấy trời trăng mây nước. Người giàu uống các lọai Cognac, Champagne, Bia, giới bình dân uống rượu Đế quốc doanh sáng trưa chiều tối (ở Hoa Kỳ không phải chổ nào cũng được phép uống bia rượu, ở Đức thì tự do không bị cấm, nhưng trong tuần bận làm việc, không có thì ngồi nhậu, bàn rượu không phải là nơi giải quyết giao tế việc làm hàng ngày). Người không uống được rượu, nhưng ngồi với bạn trong cái thú vui bàn rượu. Đã ba mươi (1975-2005) mùa xuân đi qua lặng lẽ, ngày Tết gợi lại những kỷ niệm xa xưa
Ba mươi chưa đủ mùa Xuân lớn Chỉ thấm giòng châu, nặng bước đường Hồ trường ai rót mà sao cạn? Nhớ rót dùm ta về một phương (Cao Yên Tuấn )
Rượu giúp vui và giải sầu say sỉn một vài lần không sao, nếu uống rượu nhiều sanh bệnh ghiện thì hại sức khỏe, uống nhiều rượu thì bất lợi ruợu tác dụng không tốt vì có chất ethyl alcohol. Có thống kê : 50% tội phạm trong nhà lao, 40% tai nạn giao thông, 25% người bệnh có liên quan đến rượu.
Các nhà khoa học cho biết bệnh nhân từng trải qua phẫu thuật tim nếu uống một lượng vừa phải rượu hoặc bia hằng ngày sẽ làm giảm được nguy cơ hẹp tĩnh mạch trở lại . Mọi người đều biết việc dùng nước uống có chất rượu hợp lý có thể giảm nguy cơ đau tim và đột tử ở những người bị bệnh tim, các nhà khoa học tại Đại học Heidelber, Đức chứng minh rằng ngay cả khi tổn thương ở tim đã được khắc phục. Bác sĩ Donald Thomas, một chuyên gia về bệnh suyễn và đường hô hấp ở Maryland, cho biết: "Với những kết quả vừa được công bố, tôi sẽ cảm thấy vững tâm thoải mái hơn khi khuyến nghị các bệnh nhân của tôi nên uống rượu vang một cách vừa phải và đều đặn." rượu làm giảm các tế bào gây hẹp động mạch. Uống nhiều có thể gây ra chứng tăng huyết áp và các vấn đề sức khỏe khác, rượu lợi hại tuỳ theo người dùng và bệnh lý phải chẩn đoán rõ ràng tránh phản ứng ngược lại .
Rượu vang đỏ có tác dụng chống ung thư do chứa tác nhân chống oxi hóa có tên resveratrol vốn có rất nhiều trên vỏ nho đỏ - nguyên liệu chính để làm rượu. Các nghiên cứu trước đây cho thấy resveratrol, cũng có mặt trong quả mâm xôi và lạc củ, có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch. Ngoài ra, chất này rất tốt đối với những người ăn kiêng
Theo Đông y rượu làm thông huyết mạch, tán thấp khí, giúp kích thích tiêu hoá ăn ngon "tửu vi bách dược chi trưởng / rượu đứng đầu trăm loại thuốc. Thị trường Việt Nam thường quảng cáo nhiều loại rượu thuốc cường dương bổ thận, trị đau nhức, hai thứ bệnh y học gọi là chứng tiết tảo (xuất tinh sớm) hay dương nuy (liệt dương) thì uống rượu ngâm thuốc có lộc hươu, nhung nai, cao hổ cốt (?). Họ còn cho rằng rượu rắn tốt và ăn thịt bổ, vì rắn là con vật hấp thụ đủ khí âm dương do cơ thể rắn sát đất (âm), đầu luôn ngóc lên (dương) khi bò. Rượu rắn tùy theo số rắn ngâm như 3 con: tam xà, 5 con: ngũ xà, 10 con: thập xà. Các loại rắn thường dùng là hổ mang, cạp nong, mái gầm, lục. Một bình 10 lít ngâm 10-15 con rắn các loại, thêm cá ngựa, sâm quy, thục, táo tàu.. Ngoài rắn ngâm rượu còn cả tắc kè ngọc dương vv. Các rượu thuốc Mỹ tửu, Trường sinh tửu, Diêu linh tửu, Minh Mạng thang..
Bạn bè gặp nhau thường mời bia hay rượu, lúc rảnh việc cùng chén thù, chén tạc đôi khi rượu gợi nhớ về thời vàng son xuân sắc, quên tất cả buồn phiền đời sống vây quanh, lúc say quên thực tế phủ phàn đi vào giấc mộng dễ dàng và êm ả, nhưng đôi khi quá chén bị bà xã phiền hà thì phải cầu cứu thi sỉ Tản Đà :
Say sưa nghĩ cũng hư đời Hư thì hư vậy say thời cứ say Đất say đất cũng lăng quay Trời say mặt cũng cũng đỏ gay ai cười ? (Tản Đà )
Vua Ngô 36 tán vàng Chết xuống âm phủ có mang được giø Vua Chổm uống rượu tì tì Thác xuống âm phủ khác gì vua Ngô ! (Ca dao )
Cũng có trường hợp "tửu bất khả ép, ép bất khả từ" quá chén sinh ra "Tửu nhập ngôn xuất / rượu vào lời ra" nói dài, nói dai mà không ý thức được điều mình nói gì ? "đa ngôn đa qúa" làm phiền người chung quanh không ít ; người uống say về nhà chửi bới đánh đập vợ con, làm mất niềm vui trong gia đình
Ở đời chẳng biết sợ ai Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày (Ca dao )
Nhưng người say cũng biện hộ cho việc say sưa đâu đến nỗi nào, bởi vì men tình mà đời đã trao cho
Say thời say ngãi say tình Say chi chén rượu mà mình nói say hoặc Rượu nào rượu lại say người Bớ người say rượu, chớ cười rượu say (Ca dao )
Nhà thơ núi Tản sông Đà sống cuộc đời "say sưa nghĩ cũng hư đời" nhưng thi nhân mượn thơ và rượu thoát khỏi thực tế chua chát, đắng cay
Rượu thơ mình lại với mình Khi say quên cả tấm hình phù du (Tản Đà )
Thi hào Nguyễn Du đã diễn tả hoàn cảnh khổ đau ngang trái của nàng Kiều, khi vui bên chén rượu để giải sầu, nỗi buồn 15 năm lưu lạc có bao giờ tàn phai, mà người sầu muộn thường uống say để quên đời.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên (Kiều - Nguyễn Du)
Lư Trọng Lư thường mượn hơi men để giải sầu, đổi lấy những giây phút say sưa chuếnh choáng hầu lãng quên và dứt khoát với dĩ vãng .
Mời anh cạn chén rượu nầy Trăng vàng ở cúi non tây ngậm buồn Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay Để lòng với rượu cùng say Chừ đây lời nói chua cay lạ thường (Lưu Trọng Lư )
Hay
Người đi ừ nhỉ ngườI đi thật Mẹ thà coi như chiếc lá bay Chị thà coi như là hạt buị Em thà coi như hơi rượu say (Thâm Tâm)
Ca dao trữ tình trong kho tàng văn học Việt Nam, phản ảnh tâm hồn lãng mạn và tình yêu dạt dào, tiếp xúc với thiên nhiên, đời sống gia điønh và xã hội, ca dao nhắc về rượu rất nhiều nhưng tôi chỉ trích dẫn một phần mà thôi. Ở thôn quê người ta chỉ cần một buồng cau, khay trầu, uống chén rượu đã trở thành suôi gia, không cần mân cao cổ đầy
Rượu lưu li chân qùy tay rót Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh Theo anh cho ấm tấm thân Khỏi qua núi nọ, khỏi lần núi kia
Hay
Anh có thương em thi lo một buồng cau cho tốt, một hũ rượu cho đầy Đặt lên bàn thượng, hạ xuống bàn xây Chàng đứng đó, thiếp đứng đây Lẽ mô thầy với mẹ lại không kết nghiã sum vầy cho con ? Tay ôm hũ rượu, buồng cau Đi ngả đằng sau, thầy mẹ chê khó, đi ngả cửa ngõ chú bác chê nghèo , Nhắm cừng duyên nợ cheo leo Sóng to thuyền nặng, không biết chống chèo có đặng không Về đời sống thiên nhiên và con người Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm Rượu Hồng đào chưa uống đã say Rượu chuồn này chén trăng bơi Uống cùng Huế với cuộc chơi sang ngày
Nét đẹp của đàn bà Việt Nam thật tuyệt vời đảm đang lo việc nhà, giáo dục con cái, để chồng gánh vác việc ngoài xã hội, nói chung dù đời sống thế nào cũng một lòng tiết hạnh
Ăn miếng trầu năm ba lời dặn, Uống một chén rượu năm bảy lời giao Xung quanh dù sóng lượn ba đào Em cũng giữ niềm tiết hạnh, chứ không lãng xao Vì quan niệm lẽ sống ảnh hưởng vào đời người, rượu được ví với cái nết đằm thắm, yêu đương hạnh phúc gia đình, người vợ đảm đang mọi việc đều ổn định Rượu ngon bất luận be sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may.
Rượu ngon nhờ để lâu ngày càng thơm ngon như rượu vang (vin) Clos, Château, Cru. Rượu mạnh Cognac X.O (Extra Old) so sánh rượu ngon với người vợ đoan trang, thủy chung để tình duyên thêm mặn nồng
Rượu ngon bởi vị men nồng Người khôn bởi vị giống nòi mới khôn Rượu say vì bởi men nồng Vợ mà biết ở chắc chồng phải theo Rượu sen càng nhắp càng say Càng yêu vì nết, càng say vì tình Đầy vơi chúc một chén quỳnh Vì duyên nên uống, vì tình nên say
Ngày xưa bà Trần Tú Xương "quanh năm buôn bán ở ven sông" lo việc nhà để ông Tú vui chơi uống rượu giải sầu vì số phận long đong về đường thi cữ không thành đạt, nhưng những người đàn bà khác cũng chiều chồng hiếu khách:
Cái bống là cái bống binh Thổi cơm nấu nước một mình mồ hôi Rạng ngày có khách đến chơi Cơm ăn rượu uống cho vui lòng chồng
Vì trạng thái chung của xã hội ảnh hưởng vào tâm tư con người, đời sống cần cù, chất phát, ôn hoà nhưng cũng xao động sa ngã ! có thể nói ca dao đã ghi lại các khía cạnh của tình yêu, trạng thái tình cảm trắc trỡ khó khăn :
Vai mang bầu rượu chiếc nem Mảng say quên hết lời em dặn dò
Rượu nồng nem chua, quyến rũ lòng người thêm dục vọng, vào vòng vui thú của bản ngã, tâm tình, gắn bó về nhân nghiã bị lu mờ chăng ? bởi vậy ca dao cũng thường nhắc lại những thói hư thường tình, trong đời sống nhân sinh. ở Việt Nam có thêm phong trào uống "bia ôm", "rượu ôm". làm nhiều người gia đình mất hạnh phúc
Thế gian ba sự không chừa Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ
hoặc
Còn trời, còn nước còn non Còn cô bán rượu, anh còn say sưa
Tuy nhiên con người phải tự kèm hảm dục vọng, nhìn chung xã hội loài người bất kỳ ở tầng lớp nào, cũng bị cám dỗ len lỏi vào cuộc sống :
Anh ơi uống rượu thì say Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo. Mang bầu đến quán rượu dâu Say hoa đắm nguyệt, quên câu ân tình Rượu lạt uống lắm cũng say Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Đời sống xã hội tập hợp như những màu sắc rực rỡ, quyến rũ vì tình, tiền, quyền lực, dục vọng con người đang âm thầm đốt cháy từng mảnh tâm hồn, có người xa lánh trần tục muốn tu nhưng không tránh khỏi quyến rũ vật chất của đời sống văn minh ! Đời sống trần tục chúng ta sống phải đạo làm người đó là điều đáng quý trọng. Say sỉn nhiều khi tránh được phiền não, người sầu muộn thường uống say. Trong những cái say của cuộc đời, cái say nào cũng nguy hiểm dù say rượu còn có lúc tỉnh. Say tình, say tiền, say danh vọng thì triền miên, không ai muốn ra khỏi cơn mê đó ! làm người, có phải ai cũng phải mang một bệnh say ? (Nguồn Nguyễn Quý Đại)
10 cách giã rượu ngày tết
Ngày Tết trong lúc vui vẻ cụng ly cùng bạn bè, người thân, các đấng mày râu rất dễ bị "quá chén". Hậu quả không tránh khỏi là có người bị say rượu hoặc ngộ độc rượu. Nhẹ thì cơ quan tiêu hóa bị thương tổn (đau rát dạ dày, nôn mửa), nặng thì có thể dẫn đến tử vong. Nhân ngày đầu xuân xin mách bạn mười cách "giải say" dưới đây:
1. Nước Mía: Khi say rượu chỉ cần uống một cốc nước mía ép sẽ có tác dụng giải rượu nhanh chóng nhất. 2. Gừng tươi: Thái một củ gừng tươi khoảng 60 gram thành từng lát mỏng, sau đó đem sắc nước uống. Vị gừng nóng (có tác dụng chống say rượu, vì gừng làm cho các mạch máu lưu thông tốt hơn, từ đó hóa giải nhanh chất cồn trong cơ thể. Có thể cho thêm vào nước gừng nóng một thìa nhỏ mật ong để có thể hấp thụ nhanh và giúp giải say rượu. 3. Đậu đen: Khi ngộ độc rượu ta có thể uống nước sắc đậu đen để giải say. Ninh đậu đen cho nhừ rồi uống liên tục từng chén một sẽ có tác dụng giải ngộ độc rượu. 4. Đậu xanh: Đậu xanh hạt cũng giải được ngộ độc rượu bằng cách sau: Nghiền nát khoảng nửa lon đậu xanh hạt, sau đó hòa vào nước sôi để nguội rồi cho người ngộ độc rượu uống để nôn mọi chất trong dạ dày ra khỏi cơ thể. Sau đó có thể cho người ngộ độc ăn cháo gạo nấu với 30g cam thảo. 5. Rau muống: Uống nước ép rau muống cũng chữa được ngộ độc rượu. Rửa sạch 500g rau muống tươi (loại rau sạch) giã nát, vắt lấy nước uống nhiều lần trong ngày sẽ giải được ngộ độc và khỏi say rượu. 6. Cà chua: Cà chua cũng giải rượu. Uống rượu say bị nôn không chỉ gây mệt mỏi mà còn làm cho cơ thể mất đi một lượng lớn các nguyên tố cali, canxi, natri... Cách giải ngộ độc rượu đơn giản, dễ làm nhất là uống một cốc nước ép cà chua chín. Trong cà chua có nhiều nguyên tố nói trên sẽ kịp thời bổ sung cho cơ thể. 7. Nước bưởi: ăn bưởi hoặc uống nước bưởi ép cũng có tác dụng làm tỉnh rượu và giải ngộ độc rượu. 8. Cà phê đậm đặc: Uống cà phê giải rượu. Người say rượu, bia thường ngủ mê mệt. Lấy nước sôi pha một cốc cà phê đặc cho uống, một lúc sau sẽ tỉnh rượu. 9. Chè xanh: Cho người say rượu uống một cốc chè xanh pha đặc cũng sẽ giải ngộ độc rượu rất tốt. Vì trong chè xanh có chất axít tanic khử được chất cồn trong rượu. 10. Cháo nóng nấu loãng (Hồ): Cho người say rượu uống một bát nước cháo nóng, nấu loãng sẽ hết say, vì chất cồn trong rượu gặp nước cháo loãng sẽ bị ngưng tụ lại làm cơ thể không hấp thụ được chất cồn nữa.
Khi say rượu bạn hãy kịp thời áp dụng một trong 10 cách nói trên sẽ giải rượu và tránh được ngộ độc rượu. Tuy nhiên, cách chống say rượu tốt nhất vẫn là (phòng bệnh hơn chữa bệnh). Chỉ uống rượu ở mức vừa phải, phù hợp với thể trạng, sức chịu đựng của mình. Chỉ uống rượu của các hãng rượu có tín nhiệm. Nếu là rượu dân gian, rượu thuốc thì có nguồn gốc tin cậy, tránh rượu giả, rượu không rõ nguồn gốc, rượu nghi có pha thuốc sâu để tăng nồng độ thì rất nguy hại cho sức khỏe... (Trích nguồn honviet)Đọc tiếp...
Nghe vẻ nghe ve Nghe vè Tết đến Bạn bè thân hữu Cùng nhau sum vầy Sức khỏe tràn đầy Gia đình hạnh phúc Nhà nhà sung túc Mừng đón xuân sang Một nhành mai vàng Bên mâm ngũ quả Tiếng cười rộn rã Vang khắp mọi nhà Đây đó gần xa Tiếng cười trẻ nhỏ Rộn vang ngoài ngõ Mừng tuổi ông bà Kính chúc mẹ cha Sống lâu hạnh phúc Cháu con xin chúc Làm ăn phát tài An khang thịnh vượng.